Trong 70 năm quan hệ hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam và Tiệp Khắc có một thời kì rất sôi nổi là từ đầu những năm 60 đến thập niên 80 thế kỷ trước, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Việt Nam ở trong giai đoạn quyết liệt và tiếp theo là những năm tháng đầu tiên Việt Nam thống nhất. Đây cũng là thời kì hàng trăm hàng ngàn sinh viên, nghiên cứu sinh và thực tập sinh Việt Nam được Chính phủ bạn đón sang và được nhân dân Tiệp Khắc nuôi dưỡng, cho ăn học thành tài để trở về xây dựng tổ quốc.
Ngày nay trong kí ức của hàng ngàn người Việt Nam còn ghi lại những kỉ niệm vô cùng đẹp đẽ của một thời kì vàng son ở Tiệp khắc xưa. Và chắn hẳn nhiều người vẫn còn nhớ đã có một thời ở Praha có tới hai Đại sứ quán của Việt Nam. Ngoài Đại sứ quán chính thức của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ những năm 50 đóng tại Holečkova 105/6, Praha 5 – Smíchov (ảnh 1), còn có một Đại sứ quán trực thuộc Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, mọi người quen gọi tắt là Đại sứ quán Miền Nam, được thành lập năm 1969 sau khi Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ra đời, trụ sở ban đầu tại U Vorlíků 320/13, Praha 6 (ảnh 2) và sau đó, từ năm 1973 chuyển về Nad Kostelem 725/8 Praha 4 - Braník (ảnh 3). Hai đại sứ quán là danh nghĩa về đối ngoại, còn thực chất trong nội bộ chỉ là một, có chung một đảng ủy và cùng nhận chỉ thị thống nhất từ "Nhà". Sau khi nước nhà thống nhất, hai Đại sứ quán Việt Nam hợp nhất thành Đại sứ quán Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trụ sở vẫn đóng tại Holečkova 105/6, Praha 5 – Smíchov, đến 1996 chuyển về Plzeňská 2578, 150 00 Praha 5.
Tháng 9 năm1972, sau khi tốt nghiệp khoa Điều khiển học thuộc Đại học kĩ thuật Séc (ČVUT) tôi được lên nhận công tác phiên dịch tại Đại sứ quán Miền Nam. Sau anh Phan Đăng Điều, tôi và anh Trịnh Quang Thanh thuộc thế hệ phiên dịch thứ hai được biên chế chính thức của CP72, tức là Bộ Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đóng tại Chùa Bộc, Hà Nội, do bà Nguyễn Thị Bình làm bộ trưởng. Tổ phiên dịch bên "sứ quán miền Bắc" thời kì đó là anh Hoàng Thanh Chương, Lê Xuân Thông, tiếp theo là anh Phạm Công Thành rồi anh Nguyễn Xuân Nho.
Tháng hai 1975 ở Praha tuyết rơi rất đẹp, phủ trắng phố phường và những đồi thông bát ngát. "Tháng hai tuyết trắng, cánh đồng tăng sức sống (Únor bílý, pole sílí)", có một câu tục ngữ Séc như thế. Từ tháng ba năm ấy, cuộc tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân ở miền Nam liên tiếp giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác với tốc độ vũ bão mà trước đó không ai tưởng tượng nổi. Mặt trận ngoại giao của Việt Nam trên thế giới cũng chạy hết công suất. Ở Praha, Sứ quán Miền Nam liên tục phát đi các bản tin thời sự "Bulletin" bằng tiếng Séc, in bằng máy in rô-nê-ô do Sứ quán Thụy Điển tặng, để tuyên truyền về chiến thắng và đường lối hòa hợp hòa giải dân tộc cho một miền Nam trong tương lai. Tôi được phân công vẽ đồ lại các bản đồ "da báo" đan xen các vùng giải phóng và chưa giải phóng trên giấy sáp để in kèm trong các bản tin. Các vùng giải phóng được tô đậm, cùng với các mũi tên chỉ hướng tiến công của quân giải phóng. Nhiều khi quá tay, tôi tô rộng hơn so với bản gốc một chút thì bà đại sứ cũng không trách mà chỉ cười: không sao, ngày mai quân ta sẽ giải phóng đến đây!
Chưa hết tháng ba, trên bản đồ "da báo", vùng giải phóng đã phủ khắp Tây Nguyên, các mũi tên tiến công của quân giải phóng đã chĩa về Huế và Đà Nẵng. Các cuốn phim thời sự quay trực tiếp từ chiến trường được chuyển thẳng qua Mátxcơva rồi chuyển sang Praha. Tổ phiên dịch làm việc cật lực, dịch các bản thuyết minh sang tiếng Séc để công chiếu ở một số rạp chiếu bóng. Nhân dân nước bạn phấn khởi chia sẻ niềm vui với chúng ta. Các cơ sở công đoàn và đoàn thanh niên các địa phương mượn phim thời sự của ta về chiếu và tổ chức các cuộc mít tinh, hội thảo chúc mừng chiến thắng của Việt Nam. Bên cạnh các nhân viên Đại sứ quán, những thanh niên sinh viên Việt Nam cũng trở thành những "nhà ngoại giao nhân dân". Nhiều bạn bè Tiệp Khắc phấn khởi khoe: hôm nay nhà máy chúng tôi đã tổ chức lao động thứ bẩy cộng sản để đóng góp cho chiến thắng ở Việt Nam (lại còn nói thêm: đối với Việt Nam thì lúc nào cũng sẵn sàng, còn Ả Rập thì tôi không đi).
Tháng tư, khi khắp các cánh rừng đại ngàn ở Tiệp khắc bừng lên màu xanh dưới ánh nắng xuân ấm áp thì cũng là lúc chiến dịch Hồ Chí Minh ở miền Nam Việt Nam đang trên đà phát triển thắng lợi. Đại sứ quán Miền Nam hầu hết gồm những cán bộ ngoại giao người miền Nam. Ông Hồ Ngọc Minh, bí thư thứ nhất có lẽ là người mong ngóng tin chiến thắng nhiều nhất. Người vợ trẻ của ông ở miền Nam xa ông từ ngày ông ra Bắc tập kết, ngót nghét 20 năm trời mới nhắn được tin ra CP72 để hỏi thăm tin tức của ông. Tôi hiểu nỗi lo của ông. Thời đó thư từ ở miền Nam gửi ra Bắc đều phải qua con đường giao liên, khi đến được tay người nhận thì tình hình có thể đã khác lắm rồi. Ông thắc thỏm mong chờ ngày thắng lợi để được về Nam, hi vọng sẽ tìm được vợ.
Những ngày sau chiến thắng Xuân Lộc 21/4 trôi đi rất nhanh trong niềm vui chờ đón ngày toàn thắng. Phút giây ấy đã đến. Khoảng 10 giờ sáng ngày 30 tháng tư 1975 (ở Việt Nam đã là buổi chiều), đại sứ Phan Minh Hiền xúc động báo tin: "Nhà" vừa mới gửi điện tín sang báo tin Việt Nam đã toàn thắng. Từ nay hai miền đã là một!
Những tháng hè 1975 tràn ngập niềm vui của ta cùng các bạn bè Tiệp Khắc. Các đoàn đại biểu khắp nơi đến hai Đại sứ quán ta chúc mừng. Ban chủ nhiệm hợp tác xã hữu nghị Tiệp Việt ở Kačina đến Sứ quán như những người nhà, mang theo những cốp xe đầy rau quả tươi và cả một con lợn mới thịt của bà con xã viên gửi lên để ăn mừng chiến thắng.
Nhưng,
Ông bạn nước to mà thời đó ta quen gọi lóng là ông "Mì chính" (một thứ gia vị rất quý hiếm thời chiến tranh) những năm trước lúc nào cũng leo lẻo: chiến thắng của các đồng chí là chiến thắng chung của chúng ta, thì mãi hơn một tháng sau mới đến thăm xã giao Đại sứ quán ta để "xin có lời chúc mừng". Nhạt phèo! Thứ "mì chính" ấy thế mà độc.
Thời gian trôi đi nhanh quá, mới đó mà đã tròn bốn mươi lăm năm. Các nhân vật trong kí ức Đại sứ quán Miền Nam tại Tiệp Khắc xưa đã trải qua nhiều thăng trầm nhưng đều có những lời kết có hậu. Bí thư thứ nhất Hồ Ngọc Minh cuối năm 76 đã trở về thành phố Hồ Chí Minh làm giám đốc một công ti xăng dầu quốc gia và gặp lại người vợ mấy chục năm đằng đẵng xa cách. Nhiều người khác đã nắm giữ những chức vụ quan trọng ở Bộ ngoại giao và ở các lĩnh vực khác. Hôm nay có những người trong số họ và cả những người bạn bè Tiệp Khắc trung thành ngày xưa đã khuất núi.
Còn tôi, như một định mệnh, công việc phiên dịch trái nghề mà tôi không ưa thích thời ấy về sau này lại trở thành niềm vui, để đến cuối đời cùng với các cộng sự biên soạn được Bộ đại từ điển giáo khoa Séc-Việt, và những ngày này, ngoài những giờ đắm mình trong thiên nhiên xanh của Praha lại âm thầm bên trang sách đèn khuya để biên soạn tiếp bộ từ điển Việt-Séc theo chiều ngược lại.
Xin được viết vài dòng để tỏ lòng cảm ơn cuộc đời đã cho tôi những tháng ngày rất đẹp và để nhớ tới những những người anh, người chị và những người bạn một thời "Đại sứ quán Miền Nam" xa xưa đã cùng nhau chia sẻ ngọt bùi.
Praha, 30.4.2020
Nguyễn Quyết Tiến
Một số hình ảnh:
|