* Đôi điều về tác phẩm và tác giả: Tiểu thuyết Hồ nước (Jezero -2016), đã được NXB Host ấn hành vào mùa thu năm ngoái và năm nay đã nhận giải thưởng “Sách của năm” Magnesie Litera. Bianka Bellová đã học trường đại học kinh tế ở Praha, hiện bà đang sống ở đây với người chồng là Adrian T. Bell, một nhạc công người vương quốc Anh và ba đứa con, bà sống bằng nghề dịch thuật và phiên dịch tiếng Anh.
Là cuốn tiểu thuyết thứ tư của nhà văn Bianka Bellová kể về chuyến đi của cậu con trai mới lớn đi tìm mẹ.
Tiểu thuyết tiếp cận hé mở tương lai của thế giới, hoặc là có thể đã đi xa hơn thế. Thời gian xảy ra câu chuyện của cuốn tiểu thuyết mới Hồ nước của nữ nhà văn Séc Bianka Bellová cũng không được xác định. Nơi xảy ra câu chuyện cũng vậy. Không thể nào chốn chạy trước cảnh hoang tàn thấy ở mọi nơi.
Vẫn với lối dẫn chuyện lôi cuốn và hấp dẫn trước, nhưng nữ tác giả của bốn cuốn tiểu thuyết cô đọng hiện thấy đó “không đeo đuổi lối cũ” mà bà viết sắc sảo, sống động, không quá cầu kỳ. Bà muốn nó hấp dẫn lôi cuốn bạn đọc nhưng không vì thế mà xem nhẹ những yêu cầu truyền tải nội dung.
Ở phần mở đầu của tác phẩm cũ hơn Mrtvý muž (người đàn ông đã chết) tác giả của nó nói về văn học như sau: “Bạn hẳn biết xu thế thời nay của nó ra sao. Khi mà không nói gì về tình dục, bạo lực hay thứ thịt khoái khẩu thì chắc chẳng có ai quan tâm đâu." Và Bellová đã nhắc nhớ tới một thứ bạo lực ngay trong câu đầu tiên trong Người đàn ông đã chết – bản tuyên án tử hình người vô tội dưới thời Gottwald vào những năm 50: "Họ đã treo cổ ông già vào tháng chín năm 1950." Điều đó giống như cách lướt xoay tay chèo thật khéo léo của người chèo thuyền độc mộc (kayak) kiểu Eskimo – mái chèo nổi rồi lại chìm, rồi chìm lại nổi lên mặt nước.
Bellová với ba tác phẩm xâu chuỗi những vấn đề đang xảy ra tại nước Séc hiện tại, và lần này với tác phẩm Hồ nước thì bà đã thực hiện thêm một bước ngoặt nữa. Bà đã viết cuốn tiểu thuyết có tính khởi xướng về một thanh niên trẻ có tên là Nami bắt đầu chuyến đi từ một thị trấn hư cấu đang suy tàn Boros bên bờ hồ nước đang khô cạn dần. Cậu đi tìm người mẹ đã bỏ rơi cậu hồi còn thơ bé để chốn chạy khỏi cuộc hành hình dã man kiểu Mỹ (lynch). Lần này cậu đã gặp người cha hờ mà hồi ấy đã cưỡng hiếp người mẹ mới mười bảy tuổi của cậu.
Chuyến đi của Nami liên tục thay đổi trong những môi trường khác nhau, nói chung cậu bắt gặp một số nhân vật một phía nhưng cuối cùng cậu trở lại nơi mà cậu đã ra đi – về lại hồ nước quê hương Boros. Cho dù cậu phát hiện được ra mẹ ở tận vùng nóng như thiêu đốt, nơi mẹ cậu làm lụng trên những thửa ruộng trồng bông rộng lớn có hệ thống tưới tiêu hút nước từ hồ, nhưng mà sau đó cậu vẫn bỏ mặc mẹ ở lại. Chính vào lúc đó khi mà những người đàn bà ở đấy bắt đầu che mặt, những người đàn ông để râu quai nón và dựng lên thánh đường hồi giáo.
Logic những nguyên do và những hậu quả chuyến đi của Nami đi tìm mẹ và rồi lại quay về trong tiểu thuyết Hồ nước không phải là chính yếu. Bellová dựa vào bối cảnh lịch sử rõ ràng của khối phương đông ở thế kỷ 20 vẫn thường xuyên tác động vào hiện tại mà dựng lên hiển nhiên câu chuyện có tính ngụ ngôn du hý nơi thế giới cận kề địa ngục. Ngay cả thứ đồ ăn tốt nhất mà Nami đã nuốt vào miệng cũng tức thì phải mửa ra. Còn khi thấy tệ quá thì ông cụ bên đằng bố lập tức phải rán trứng làm thức ăn cho cậu.
Với đặc tính của tiểu thuyết Hồ nước có lẽ khẩu hiệu trong lời bài hát của ban nhạc Jasná páka (đòn bẩy anh minh) là thích hợp, nó tóm lược được bản chất của xã hội quyền lực: "Dù thế hay vẫn thế/ tất cả đều trái ngược” (=Ať tak anebo tak/všechno je naopak.)
Những con quỷ to lớn nhất trong tiểu thuyết Hồ nước là những kẻ Rusak. Chúng đại diện cho việc xử sự tàn nhẫn thô bỉ, tàn phá thiên nhiên, bằng lực lượng quân đội to lớn đã đã để lại sự phá hủy. Sự nhân cách hóa này có tính logic của nó: với tuổi đời là 46, Bianca Bellová thuộc thế hệ ở Tiệp Khắc đã lớn lên dưới sự giám sát của xe tăng Nga. Bà biết rõ, tại sao tất cả lại trái ngược như vậy.
Bài phóng sự về hồ Aral ngày càng bị khô hạn đăng trong tạp chí National Geographic là nguồn cảm hứng cho nữ tác giả viết cuốn tiểu thuyết mới. Nước hồ Aral thuộc phần châu Á của thời Liên bang Xô viết được Moskva dùng ở những năm 50 của thế kỷ trước để tưới tiêu cho cánh đồng trồng bông tại những vùng sa mạc, và thế là đa phần hồ này trong vòng vài chục năm đã khô cạn nước. Điều đó đã hủy hoại cuộc sống của dân cư quanh vùng.
Trong tiểu thuyết của Bianka Bellová sự biến đổi này đã phản chiếu đầy đủ mặt bằng chung: "Trường hợp Aral” (=případ Aral) mãi là đề tài về thao túng quyền lực đối với thiên nhiên và người dân. Tại Urubory của Nami cũng vậy, để mặc ông lớn Nhà nước bắn trong rừng, cạnh cái hố mà họ phải tự đào để chôn mình. Và sự tàn phá môi trường đã gây ra tác động ví như đứa trẻ sinh ra có cái tay thứ ba ở ngực. Cũng có lẽ giống như tấm gương phản chiếu ở Hồ nước cũng chính là thảm họa hạt nhân ở Tréc nô bưn.
Thiên đường duy nhất ở đây đối với con người là hòn đảo bị bỏ hoang giữa hồ nơi mà các loài đông vật khác nhau cùng chung sống. Những kẻ Rusak đã thế chân chúng, trước khi họ rời khỏi đảo, họ đã thực hiện những cuộc thí nghiệm với những vũ khí hóa học. Để xem con vật nào sống sót được, hiển nhiên là họ phải tổ chức săn thú, hình như để bệnh lây nhiễm không lan ra qua cái hồ đang dần khô cạn, những sinh vật vô tội chào đón những kẻ sát sinh mình với niềm hy vọng. Phần mô tả cuộc thảm sát tiếp sau thật dã man.
Từ chương này tiếp đến chương khác tiểu thuyết Hồ nướcdẫn người đọc đến bức tranh tạo hình cảnh báo một điều rằng những lời tiên tri này sẽ còn lặp lại. Hồ nước có ảnh hưởng mạnh mẽ tới tình hình địa chính trị hiện nay.Có thể chính vì điều đó mà Bianca Bellová đã viết cuốn tiểu thuyết này.
Ivan Hartman – biên tập viên chuyên mục văn học
(NKV dịch từ nguyên bản tiếng Séc)
Bản tiếng Séc: Xem tại đây
|